9.      HỌC THỨC:       

 

Thứ Ba 23/5 đến Thứ Năm 25/5: hai ngày đầu 300 đại biểu các ngành khoa học họp bàn về mối liên hệ giữa đức tin và lý trí, và ngày cuối cùng tham dự lễ tại Đền Thờ Thánh Phêrô do Đức Hồng Y Paul Poupard, Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hóa dâng. Sau lễ được ĐTC ban huấn từ.

 

 

N

gày nay ‘chúng ta đang đối diện với một thách đố cả thể... trong việc chuyển hướng từ hiện tượng đến bản chất, một bước vừa cần thiết lại khẩn trương. Chúng ta không thể ngừng lại ở nghiệm thực mà thôi; ... việc suy tư hiểu biết phải đi sâu vào cốt lõi tâm linh cũng như vào gốc gác phát xuất ra nó’ (Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, đoạn 83). Việc tìm tòi theo khoa học cũng được dựa vào khả năng của lý trí con người trong việc khám phá ra những gì là phổ quát. Tính cách cởi mở trong việc tìm hiểu này mang lại ý nghĩa tối hậu và sâu xa về con người sống trên thế gian (cùng nguồn, đoạn 81)” (đoạn 2.2).

 

“Căn cứ vào việc chuyên chú quan sát hiện tượng phúc tạp trên mặt đất, và tuân theo đối tượng cũng như phương pháp hợp với mỗi một ngành, các khoa học gia khám phá ra những định luật điều hành vũ trụ cùng với mối tương liên của chúng. Họ ngỡ ngàng cùng cảm phục trước trật tự thiên nhiên và cảm thấy mình gần gũi với lòng kính mến Tác Giả của tất cả mọi sự. Về phần mình, đức tin có thể hội nhập với và đồng hóa với mọi cuộc tìm tòi, vì tất cả mọi cuộc tìm tòi hiểu biết, nhờ hiểu biết sâu xa hơn thực tại thiên nhiên nơi tất cả mọi khía cạnh chuyên biệt của thực tại này, đều cống hiến cho con người cơ hội nhận ra Đấng Hóa Công là nguồn gốc và là đích điểm của tất cả mọi sự...” (đoạn 3.1).

 

“Giáo Hội rất tôn trọng việc tìm tòi về khoa học và kỹ thuật, vì việc tìm tòi này ‘là một diễn đạt quan trọng của việc con người làm chủ thiên nhiên tạo vật’ (Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2293), và là việc phục vụ cho chân thiện mỹ. Từ Copernicus đến Mendel, từ Albert Cả đến Pascal, từ Galileo đến Marconi, lịch sử Giáo Hội và lịch sử khoa học rõ ràng cho chúng ta thấy văn hóa khoa học được bắt nguồn nơi Kitô Giáo. Thật vậy, có thể nói được rằng, việc tìm tòi, bằng cách khám phá ra những cái vĩ đại nhất cũng như những cái ti tiểu nhất, đều góp phần vào việc tôn vinh Thiên Chúa, một hiển vinh được phản ánh qua mọi phần thể của vũ trụ” (đoạn 4.1).

 

“Đức tin không sợ lý trí. Chúng ‘giống như là đôi cánh nâng tâm linh của con người lên đến việc chiêm ngưỡng thấy chân lý; Thiên Chúa đã đặt nơi lòng trí con người một ước vọng muốn biết sự thật – nghĩa là muốn biết chính Ngài – để, nhờ nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, con người nam nữ cũng có thể đạt đến sự thật trọn vẹn về chính bản thân mình’ (Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, Proem). Nếu trong quá khứ, việc tách lìa đức tin và lý trí là một thảm trạng cho con người, thành phần đã dám liều mình làm mất đi sự hiệp nhất nội tâm của mình bởi mối đe dọa của một thứ kiến thức phân mảnh hơn bao giờ hết, thì ngày nay đây, sứ mạng của quí vị là thực hiện việc tìm tòi bằng một niềm xác tín là, ‘đối với một người minh mẫn... tất cả mọi sự đều hòa hợp và ăn khớp với nhau’ (Gregory Palamas, Theophanes)” (đoạn 4.2).

 

“Quí vị thức giả nam nữ thân mến, trách nhiệm mà quí vị được kêu gọi nắm giữ thật là cao cả. Quí vị cần phải hoạt động làm sao để phục vụ thiện ích của cá nhân cũng như của toàn thể nhân loại, trong khi đó vốn phải chú trọng đến phẩm giá của mọi người và tôn trọng thiên nhiên tạo vật nữa. Mọi phương pháp khoa học cần phải có một nền luân lý, cũng như phải có tính cách cởi mở khéo léo hướng về một thứ văn hóa biết tôn trọng nhu cầu của con người... …. ... khoa học và kỹ thuật cần phải qui chiếu dứt khoát về giá trị của nội tâm con người” (đoạn 5.1).

 

“... Bởi thế, trước hết quí vị hãy trở thành những người hăm hở tìm kiếm Thiên Chúa vô hình, Đấng duy nhất có thể làm thỏa mãn khát vọng sâu xa của đời sống quí vị và làm cho quí vị được tràn đầy ân sủng của Ngài” (đoạn 5.2).

 

“Hỡi quí vị thức giả nam nữ, quí vị hãy phấn khởi lên bằng ước vọng chứng tỏ lòng trung thành của mình đối với Chúa Kitô! Vào lúc bình minh của thiên niên kỷ thứ ba này, toàn cảnh trí phong phú của nền văn hóa hiện đại đang mở ra những chiều hướng hứa hẹn chưa từng thấy nơi việc trao đổi giữa khoa học và đức tin, cũng như giữa triết lý và thần học. Quí vị hãy hiến tất cả nghị lực của mình vào việc phát triển một thứ văn hóa và một phương pháp khoa học làm sao để sự hiện diện quan phòng và quan tâm của Thiên Chúa luôn luôn được tỏ hiện” (đoạn 6.1).

 

“Hỡi quí vị thức giả nam nữ, quí vị hãy trở thành những tay thợ xây niềm hy vọng cho toàn thể nhân loại!” (đoạn 6.3).

(L’Osservatore Romano ấn bản Anh ngữ, 31/5/2000, trang 1-2)